Điều trị bướu cổ – đề phòng làm hại tuyến giáp

Đổ mồ hôi nhiều là dấu hiệu bệnh gì? - 1

Nếu như chúng ta can thiệp vào tuyến giáp không đúng lúc, chúng ta có thể làm hại tuyến giáp. Cơ thể sẽ chậm phát triển, đần độn là những gì mà chúng ta phải gánh chịu.

  • 1

    Bướu cổ là bệnh của tuyến giáp

    Bệnh bướu cổ là tình trạng xuất hiện một khối u vùng cổ, đặc biệt là khối u vùng cổ trước. Vùng cổ trước là vùng hay xuất hiện bướu cổ nhất. Vì vùng này có những cấu trúc dễ phát sinh thành bướu như tuyến giáp, ống giáp móng bẩm sinh. Các vùng cổ khác như cổ bên, cổ sau (hay là gáy) thì ít bị hơn vì vùng này chỉ có hạch là chủ yếu.

    Nói đến bướu cổ thì thường người ta nghĩ ngay đến bệnh của tuyến giáp. Đó là vì hai lý do: một, bệnh bướu cổ thường rất hay xuất hiện ở vùng cổ trước. Hai, hầu như tất cả các bướu ở vùng cổ trước đều có nguồn gốc từ tuyến giáp. Vì thế, cho nên, hầu như mặc định người ta coi bệnh bướu cổ là bệnh của tuyến giáp, mặc dù điều này về khoa học thì không được chính xác hoàn toàn.

    Ở các quốc gia đang phát triển như ở Việt Nam chúng ta, sự khác nhau về trình độ phát triển giữa các vùng miền đã ảnh hưởng sâu sắc tới tỷ lệ mắc bệnh bướu cổ. Thông thường, bệnh bướu cổ hay gặp ở những vùng ít phát triển, hay thiếu hụt các vi chất dinh dưỡng trong chế độ ăn. Một trong các chất bị thiếu hụt là iốt. Và đó là nguyên nhân khiến cho bệnh bướu cổ có tỷ lệ mắc cao ở những vùng này. Càng ít phát triển, càng thiếu hụt dinh dưỡng, càng mất cân đối các vi chất dinh dưỡng thì bệnh bướu cổ càng có cơ hội nảy sinh..

  • 2

     Có những dạng bệnh bướu cổ nào?

    Có nhiều bệnh có thể phát sinh từ tuyến giáp. Đó có thể là bệnh bướu giáp đơn thuần, có thể là bệnh viêm tuyến giáp, có thể là bệnh basedow, cũng có thể là bệnh ung thư tuyến giáp. Tuy nhiên, có tỷ lệ mắc khác nhau giữa các bệnh này. Cao nhất đó là tỷ lệ mắc ở bệnh bướu giáp đơn thuần, sau đến bệnh Basedow và đến bệnh ung thư tuyến giáp và viêm tuyến giáp.

    Bệnh bướu giáp đơn thuần có hai đặc điểm khiến cho nó có một vai trò đặc biệt trong nhóm bệnh của tuyến giáp. Một là bệnh có sự to lên về tuyến giáp rất rõ rệt, tạo thành một cái bướu, lồi lên, to rõ và cực kỳ dễ nhận ra ở vùng cổ trước. Chỉ cần nhìn qua là có thể nhận ra ngay. Hai là bệnh có tỷ lệ gặp cực kỳ cao, trong các bệnh bướu cổ, tỷ lệ gặp của nó có thể lên đến 80%. Chính hai lý do này mà người ta thường gán gép tên bướu cổ cho bệnh bướu giáp đơn thuần.

    Bệnh bướu cổ theo cách gọi thông thường chính là tên gọi chỉ bệnh bướu giáp đơn thuần, bệnh này phát sinh do thiếu iốt gây ra. Sở dĩ thiếu iốt gây ra bướu cổ không phải là do iốt là một chất làm giảm sự xuất hiện của khối u bướu mà là vì nó là một chất rất cần cho tuyến giáp. Iốt là một nguyên tố vi lượng cần cho tuyến giáp tổng hợp hormon giáp trạng. Khi không đủ iốt, thì tuyến giáp có một phản ứng nảy sinh tự nhiên đó là tăng cường bắt giữ iốt trong máu để tối đa tổng hợp hormon cho nhu cầu cơ thể. Theo phản ứng dây chuyền này, tuyến giáp sẽ tự to ra để khả năng bắt giữ iốt là cao nhất. Chính vì thế mà chỉ cần giảm iốt là tuyến giáp có thể có phản ứng to ra ngay.

    Bệnh này cũng có thể gặp ở lứa tuổi dậy thì. Đặc biệt là ở trẻ gái. Do nhu cầu phát triển của trẻ em gái nhanh và đạt tốc độ cao hơn ở trẻ trai nên nhu cầu cần hormon tuyến giáp là rất lớn. Sự tổng hợp bình thường trở lên thiếu hụt tương đối và do đó tuyến giáp cũng có phản ứng to ra để cố thu đủ iốt cho tổng hợp hormon này. Do vậy, ở một số trẻ em gái cũng có thể có tuyến giáp to ra trong lứa tuổi dậy thì. Song lúc này, mọi việc rất đơn giản vì nó tự bé lại bình thường sau khi cơ thể điều chỉnh được tốc độ phát triển lúc trưởng thành.

    Ngoài bệnh bướu giáp đơn thuần, chúng ta còn có thể gặp bệnh Basedow và bệnh ung thư tuyến giáp. Chúng cũng tạo nên một khối bướu ở tuyến giáp nhưng nhỏ hơn và bé hơn, ít rõ ràng hơn như bệnh bướu cổ. Đây là bệnh lý thực thụ của tuyến giáp do nhiều yếu tố khác nhau tạo nên và thường ít liên quan đến iốt.

    Về mặt nhận dạng, nếu như bệnh bướu cổ đơn thuần được khẳng định bằng một bướu rất to ở vùng cổ trước thì các bệnh khác thường nhận dạng bằng các dấu hiệu siêu âm và xét nghiệm chẩn đoán. Bệnh bướu cổ đơn thuần có một khối bướu rất to lồi hẳn lên. Bướu này to đến mức vượt ra khỏi chu vi của vòng cổ và như một cái túi trước ngực. Và đặc biệt, hầu như người bệnh không có một triệu chứng khó chịu nào xảy ra ngoại trừ triệu chứng bướu to.

    Khác xa với bệnh này, bệnh Basedow và ung thư tuyến giáp lại được thể hiện chủ yếu bằng các dấu hiệu có liên quan và xét nghiệm, ít khi được thể hiện bằng bướu. Vì bướu giáp lúc này rất nhỏ, rất không rõ mà chỉ nổi lên như một gồ ở trước cổ mà thôi.

    Các dấu hiệu thể hiện lúc này là mắt lồi. Người lúc nào cũng như hỏa đốt trong ngực. Tính tình thay đổi và hay cáu giận vô cớ và đặc biệt là run tay khiến cho việc thực hiện các động tác phối hợp hay những động tác tinh vi rất khó khăn.

    Việc siêu âm và xét nghiệm sẽ dễ phát hiện ra một bướu của tuyến giáp trong Basedow và một nhân tuyến giáp trong bệnh ung thư tuyến giáp. Ngoài ra trong xét nghiệm người ta còn thấy rõ ràng sự tăng lên của hormonn tuyến giáp, mặc dù lúc này nhu cầu cơ thể không cần nhiều hormon này.
    Vì thế, những người bị bệnh bướu cổ chỉ cần nhìn là thấy thì những người bị bệnh khác bắt buộc phải đi khám, xét nghiệm để cho ra kết luận chính xác.

  • 3

    Có nên can thiệp gì không?

    Bệnh bướu cổ theo cách gọi thông thường chính là bệnh bướu giáp đơn thuần. Đây là bệnh lành tính nhất trong các bệnh của tuyến giáp. Hầu như người bệnh không có tai hại gì đáng kể.

    Tuy nhiên, ở một mức độ nào đó, chúng có thể gây ra những phiền hà nhất định và chúng ta buộc phải can thiệp.

    Điều đáng ngại thứ nhất đó là bệnh gây ra sự mất thẩm mỹ, đặc biệt là phái nữ. Tự nhiên lại mang một cục bướu trước cổ không thể giấu đi được bằng các thủ pháp thời trang nên rất xấu. Với những người phải quan hệ với công chúng thì việc loại bỏ bướu này là bắt buộc.

    Điều đáng ngại thứ hai là bướu quá to có thể chèn ép vào hầu họng gây khó thở, khó nuốt, thậm chí nó còn chui xuống ngực ở một số ít trường hợp. Khi bướu to, nó phát triển ra phía sau, chèn ép vào thực quản, khí quản nên người bệnh có cảm giác là khó thở, khó nuốt. Nuốt rất nghẹn và vô cùng khó chịu. Khi rơi vào tình trạng này, việc loại bỏ bướu là bắt buộc. Ngoài ra, chúng ít khi gây ra biến chứng ung thư hóa ở loại bệnh lành tính này.

    Tuy nhiên, có một số trường hợp, việc can thiệp vào tuyến giáp là cấm kỵ. Đó là các trường hợp bị bệnh bướu cổ đơn thuần nhưng đang trong độ tuổi dậy thì. Lúc này bướu xuất hiện không phải là do bệnh lý mà chỉ là do rối loạn sinh lý nhất thời. Qua tuổi dậy thì thì mọi chuyện lại bình thường. Lúc này bướu to ra là hoàn toàn có lợi. Cắt, xén tuyến giáp lúc này ảnh hưởng nghiêm trọng đến trí thông minh và sự phát triển của trẻ ở giai đoạn sau dậy thì.
    Với các trường hợp khác, việc cắt bỏ tuyến giáp là chuyện cần tính đến. Nhất là bệnh ung thư tuyến giáp.

  • 4

    Có thể điều trị được không?

    Bệnh bướu cổ hay là bệnh u bướu tuyến giáp hoàn toàn có thể điều trị được. Có hai biện pháp điều trị cơ bản: dùng thuốc uống và phẫu thuật cắt bỏ.
    Dùng thuốc uống với bệnh basedow và với bệnh bướu giáp đơn thuần. Với bệnh basedow người ta phải dùng thuốc ức chế sự tổng hợp hormon tuyến giáp. Thời gian uống thuốc có thể dài có thể ngắn nhưng thường không thể kết thúc trước 1 năm. Tất nhiên, trong phác đồ điều trị còn nhiều thuốc khác nữa.

    Còn với bệnh bướu giáp đơn thuần, thuốc uống chính là iốt. Iốt sẽ bù đắp vào phần đang bị thiếu. Do đó tuyến giáp sẽ nhỏ lại dần. Tuy nhiên, cần uống iốt hay ăn muối iốt ngay khi bướu còn nhỏ. Nếu khi bướu đã quá to như một cái túi trước cổ thì rất khó có thể trở lại bình thường.

    Chuyện phẫu thuật là chuyện được tính đến trong cả ba trường hợp. Nếu bướu cổ đơn thuần quá to, cần phải cắt. Khi bệnh Basedow uống thuốc nhưng không tiến triển, sẽ bị phẫu thuật. Hoặc khi ung thư tuyến giáp.

    Phẫu thuật bướu của tuyến giáp không khó và không để lại biến chứng gì đáng kể. Ngay cả sẹo mổ cũng được loại bỏ bởi các kỹ thuật nội soi hiện đại và không để lại bất cứ một dấu vết gì trên cổ.

    Việc quan trọng nhất đó là tích cực ăn muối iốt, đặc biệt là trẻ chưa dậy thì. Việc này vừa có tác dụng làm tăng trí thông minh ở trẻ em lại vừa có tác dụng phòng bệnh