Cá ngựa đực có yêu cầu cụ thể khi chọn lựa bạn tình: tăng cơ hội sinh sản thành công. Bằng cách chọn lựa kỹ càng và thường ưa thích những con cái lớn, chúng có nhiều cơ hội có trứng to hơn, và con con lớn hơn, theo Beat Mattle và Tony Wilson Bảo tàng động vật học tại Đại học Zurich, Thụy Sĩ.
Cá ngựa có kiểu sinh sản rất đặc biệt: con đực mang thai. Những con cá ngựa đực cung cấp sự chăm sóc sau khi đỏ cho con con, tuy nhiên bất chấp sự “đầu tư” này, các nhà khoa học vẫn cho rằng chúng có vai trò tình dục thông thường, nghĩa là con cái chọn bạn tình và các con đực cạnh tranh để dành sự chú ý của con cái. Kích thước ổ trứng, trứng và con con đều tăng song song với kích thước của cá ngựa cái, cho thấy con đực có thể dành được những lợi ích về mặt sính sản qua việc “kết bạn” với những con cái có kích thước lớn.
Cá ngựa đực chọn lựa bạn đời dựa trên kích thước cơ thể, theo một nghiên cứu mới. (Ảnh: iStockphoto/Anastasia Tsoupa) |
Mattle và Wilson đã nghiên cứu hành vi giao phối của loài cá ngựa bụng phệ (Hippocampus abdominalis), tập trung vào tầm quan trọng của kích thước cơ thể trong quá trình lựa chọn bạn đời. Có tổng cộng 10 con cái và 16 con đực đã hoàn toàn trưởng thành về mặt tình dục, tất cả đều từ cơ sở sinh sản tại Tasmania, đã tham gia vào thí nghiệm. Những cá thể, cả đực và cái, được “giới thiệu” những bạn đời tiềm năng với kích thước khác nhau. Xu hướng chọn bạn tình được đánh giá theo khoảng thời gian được sử dụng để ve vãn “đối tác”.
Mattle và Wilson phát hiện những khác biệt lớn trong hành vi ve vãn giữa những con cá ngựa đực và cái, với những con đực khó tính và những con cái không phân biệt bạn tình. Những con cá ngựa đực có mức hoạt động cao và thể hiện rõ sự ưa thích đối với những bạn tình có kích thước lớn hơn. ngược lại, những con cái có mức hoạt động thấp hơn nhiều và không tỏ rõ sự ưa thích của mình.
Các tác giả kết luận: “Sự ưa thích bạn tình có kích thước lớn của những con đực là minh chứng cho thấy sự lựa chọn tình dục chịu tác động của yếu tố kích thước cơ thể của con cái trong các cộng đồng H. abdominalis hoang dã, phù hợp với những dự đoán ban đầu”.
Phát hiện được công bố trên tạp chí Behavioral Ecology and Sociobiology của Springer.
Theo G2V Star (ScienceDaily)