Nông trường 3/2 (nay là Cty Nông công nghiệp 3/2) thuộc huyện miền núi cao Quỳ Hợp – Nghệ An từ trước tới nay, đã hơn 40 năm vẫn có truyền thống trồng chè hái búp. Tuy nhiên với giống cũ được ươm gieo từ hạt, năng suất không cao và chất lượng của chè đã đi vào tụt hậu. Giải quyết vấn đề này, năm 2000 Cty đã được Viện Nghiên cứu chè Phú Hộ nay thuộc Viện KHKT Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc cung cấp hai bộ giống mới mang ký hiệu chè LĐP1 và LĐP2. Cty đã ươm được 5 ha để cắt hom nhân giống.
(Ảnh: KHKTNN) |
Trao đổi với chúng tôi, Trưởng phòng kỹ thuật của Cty, KS Phạm Bá Hội cho biết: Tính đến nay đơn vị chúng tôi đã trồng được 140ha chè mới. Trong đó đã có 40 ha đi vào kinh doanh ổn định với năng suất đạt 9 tấn chè búp tươi/ha. Ưu điểm của việc trồng chè giống mới là cắt hom ươm bầu, và thời gian kể từ khi xuống bầu cho đến 20-24 tháng sau là bắt đầu cho thu hoạch. Đây là thời gian tạo hình, tạo tán cho vườn chè nên năng suất chỉ đạt 2 tấn búp tươi/ha. Từ năm thứ 3, thứ 4 trở đi năng suất chè đã cho thu hoạch từ 8-9 tấn/ha.
Về kỹ thuật nhân giống: Từ tháng 1- 2 dương lịch là phải cắt hom từ vườn giống rồi cho vào bầu. Bầu giống được đặt dưới giàn che và phải được thường xuyên tưới nước để duy trì độ ẩm. Đến tháng 9 tháng 10 là bầu giống đủ thời gian để đem trồng. Trước thời gian trồng chè, đất được cày ải phơi nỏ ít nhất phải 1 tháng. Hàng chè được cày theo đường đồng mức để tránh xói mòn, bố trí hàng cách hàng từ 1,2-1,4m, và mật độ trồng là 16.000 bầu/ ha. Lượng phân bón lót trên 1 ha gồm phân hữu cơ 12 tấn + vôi bột 1 tấn trộn đều tấp ủ vào rãnh từ 15-20 ngày rồi mới được xuống bầu, và phải dùng cây cỏ khô che phủ xung quanh để giữ ẩm, chống xói mòn. Tuy nhiên không được tấp tủ kín gốc để đề phòng mối phá hoại bầu chè. Cũng trong năm đầu 1 ha bón bổ sung 50 kg kali, 80 kg urê. Sang năm thứ 2 bón 70 kg kali, 120kg urê. Năm thứ 3: 100 kg kali, 120 kg urê, 12.000 kg phân hữu cơ và 1.000 kg phân lân.
Cần lưu ý: Chè là giống cây ưa ánh sáng tán xạ nên khi bắt đầu trồng chè ta cũng phải trồng xen cây bóng mát vào với mật độ 160-200 cây/ha, chủng loại thích hợp nhất là loại catsia hoặc trẩu. Làm được điều này là duy trì được chu kỳ kinh doanh của chè lên tới trên 30 năm.
Đánh giá chung về giống chè mới, Giám đốc Cty Nông công nghiệp 3/2, ThS Lê Huy Dũng cho biết: Trước hết phải nói rằng giống chè này rất thích nghi với môi trường sinh trưởng ở vùng đồi trung du và miền cao Nghệ An. Nó là giống cây không kén chọn đất, nhưng phát triển tốt ở miền đồi vùng bát úp. Điều đó chứng tỏ nó cần sự thoát nước nhanh về mùa mưa lũ.
Về năng suất, qua theo dõi thực tế ở đây đã chứng tỏ: Trong điều kiện chăm sóc, bảo vệ như nhau, nhưng năng suất chè giống mới này luôn cho thu hoạch lớn hơn 2 lần so với giống cũ, bởi nó phân cành nhanh, tán rộng và búp nhiều. Phấn khởi hơn là chất lượng chè búp giống mới có hương vị đặc trưng, thơm ngon và chát ngọt hơn nhiều so với giống cũ. Cũng bởi vậy mà hiện Cty đang có kế hoạch phát triển chè giống mới này ra cả toàn vùng.
Đồng thời với việc sản xuất, đơn vị đã đầu tư xây dựng một xưởng chế biến chè hiện đại để bao tiêu chế biến hết sản phẩm chè cho cả vùng Tây bắc Nghệ An. Đây là sản phẩm xuất khẩu có giá trị nên Cty cũng đang tiến hành xây dựng thương hiệu: Chè 3/2 Việt Nam.
Theo Trung tâm Tin học Bộ NN&PTNT, KHKTNN