Trong một chuyến thám hiểm hang động dưới biển nhằm khám phá Tunnel de la Atlantida – dòng dung nham ngầm dài nhất thế giới thuộc đảo Lanzarote nằm trong quần đảo Canary, Tây Ban Nha, một nhóm khoa học đã khám phá ra loài giáp xác chưa từng được biết đến thuộc chi chân chèo Spelepnectes.
Chúng uyển chuyển bơi lượn trong bóng tối của các hang động sâu dưới đáy biển, liên tục chú ý thăm dò các con mồi. Những loài giáp xác ăn thịt thuộc phân lớp Remipedia (Chân chèo) không có mắt mà dùng những chiếc râu dài để cảm nhận không gian tăm tối bao quanh. Giống như một loài quái vật nào đó trong tiểu thuyết hư cấu, đầu chúng được trang bị chi to khỏe có khả năng giữ con mồi và răng nọc chứa độc.
Vì thế, chúng có những cái tên La-tinh rất đáng sợ. Ví dụ, tên loài Cryptocorynetes dịch ra có nghĩa là “Phu khiêng quan tài bí mật” hay Kaloketos pilosus với nghĩa “Quái vật biển rậm lông”. Một vài loài khác lại được đặt tên theo các quái vật nổi tiếng trong phim kinh dị Nhật Bản, ví dụ như “Monthra biết bơi” (Pleomothra), “Godzilla to lớn” (Godzillius robustus), hay “Thần lùn Godzilla” (Godzilliognomus).
Trong một chuyến thám hiểm hang động dưới biển để khám phá Tunnel de la Atlantida – dòng dung nham ngầm dài nhất thế giới thuộc đảo Lanzarote trong quần đảo Canary, Tây Ban Nha, một nhóm khoa học đã khám phá ra loài giáp xác thuộc chi chân chèo Speleonectes chưa từng được biết đến, cùng hai loài giun đốt thuộc lớp Polychaeta.
Trong một chuyến thám hiểm hang động dưới biển để khám phá Tunnel de la Atlantida – dòng dung nham ngầm dài nhất thế giới thuộc đảo Lanzarote nằm trong quần đảo Canary, Tây Ban Nha, một nhóm khoa học đã khám phá ra loài giáp xác chưa từng được biết đến thuộc chi chân chèo Spelepnectes. (Ảnh: © Springer) |
Nhóm nghiên cứu gồm các nhà khoa học đến từ đại học Texas A&M và đại học bang Pennsylvania của Mỹ, đại học La Laguna Tây Ban Nha, và đại học Hamburg cùng đại học Thú y Hannover của Đức. Kết quả chuyến thám hiểm đại dương Atlantida Diving Expedition sẽ được công bố chi tiết trên tờ Marine Biodiversity số đặc biệt phát hành vào tháng 9 tới.
Loài mới phát hiện thuộc phân lớp Chân chèo và được gọi là Speleonectes atlantida theo tên của hệ thống hang động hơi nó sinh sống. Xét về hình thái, loài mới rất giống với Speleonectes ondinae, một loài chân chèo đã được phát hiện ở cùng dòng dung nham ngầm năm 1985.
Dựa trên các so sánh DNA, nhóm nghiên cứu của giáo sư Stefan Koenemann đến từ Viện nghiên cứu Sinh học Tế bào & Hệ sinh thái Động vật TiHo Hannover đã chứng minh được rằng đây là loài chân chèo thứ hai sống trong cùng khu vực. Sự phân tách giữa hai loài này có lẽ đã diễn ra sau khi dòng dung nham dài 6 km hình thành trong quá trình phun trào của núi lửa Monte Corona khoảng 20.000 năm trước.
Các phát hiện về phân lớp Chân chèo là một trong những khám phá sinh học đáng kể nhất trong vòng 30 năm trở lại đây. Những loài đầu tiên của nhóm giáp xác này được biết đến vào năm 1979 khi con người lặn xuống hệ thống hang động dưới đáy biển thuộc đảo Grand Bahama, quần đảo Bahamas. Kể từ đó, 22 loài khác nhau thuộc phân lớp này lần lượt được con người khám phá. Khu vực phân bố chủ yếu của nhóm động vật chuyên sống trong hang dưới đáy đại dương trải dọc từ bán đảo Yucatan, Mexico cho tới đông bắc Caribe. Tuy nhiên, hai loài tách biệt về địa lý chỉ sinh sống trong các hang động ở Tây Úc và đảo Lanzarote, Tây Ban Nha.
Việc phát hiện ra hai loài đặc biệt nói trên tiếp tục làm tăng thêm các phỏng đoán về nguồn gốc tiến hóa và lịch sử của phân lớp Chân chèo. Người ta tin rằng những động vật nhỏ bé (con to nhất chỉ đạt tới kích thước 4 cm chiều dài) quen sống dưới hang sâu và không có mắt để quan sát như vậy không thể bơi qua cả một chặng đại dương dài, do đó chắc chắn phải có lí do nào khác giải thích cho sự phân bố không tập trung của các loài thuộc phân lớp này. Giới khoa học đưa ra giả thuyết rằng Chân chèo là một nhóm giáp xác rất cổ, từng sống phổ biến trong các đại dương ở Đại trung sinh (Mesozoic) 200 triệu năm về trước. Vì những lí do này, các động vật chân chèo thường được coi là nhóm giáp xác nguyên thủy.
Theo giả thuyết tiến hóa nói trên, loài mới phát hiện Speleonectes atlantida cùng họ hàng Speleonectes ondina của nó chính là những sinh vật cổ còn sót lại bị cô lập khỏi phân lớp Chân chèo vùng bờ biển Caribe trong quá trình hình thành Đại Tây Dương.
Tham khảo:
1. Koenemann et al. A new, disjunct species of Speleonectes (Remipedia, Crustacea) from the Canary Islands. Marine Biodiversity, 2009; DOI: 10.1007/s12526-009-0021-8
Theo G2V Star (ScienceDaily)