Cây nêu là gì? Nhiều người Việt chưa chắc đã trả lời được câu hỏi này!
Cây nêu ngày Tết đã là một truyền thống tốt đẹp của người Việt tự bao đời nay. Cứ mỗi dịp Tết Nguyên Đán, mỗi gia đình lại trồng trước sân nhà, hoặc dựng nêu trong nhà, phía trên có treo một số vật dụng mang tính chất biểu tượng, tùy phong tục địa phương.
Tuy nhiên nếu để ý, bạn sẽ thấy cây “nêu” mỗi nhà mỗi khác, khác ngay ở chính loại cây. Nhiều người dựng cây tre, nhưng có người dùng một số loại cây cùng họ tre như trúc, hay thậm chí đơn giản chỉ là thân cây mía.
Vậy rốt cục, nêu là cây gì?
Sự tích cây nêu ngày Tết
Ngày xưa Quỷ chiếm toàn bộ đất, còn Người chỉ làm thuê, và nộp phần lớn lúa thu hoạch cho Quỷ. Quỷ ngày càng bóc lột Người quá tay, và cuối cùng Quỷ tự cho mình hưởng quyền “ăn ngọn cho gốc”.
Người chỉ được hưởng rạ, tuyệt đường sinh nhai nên cầu cứu Đức Phật giúp đỡ. Phật bảo Người đừng trồng lúa mà trồng khoai lang. Mùa thu hoạch ấy, Người được hưởng trọn củ khoai, còn Quỷ chỉ hưởng lá và dây khoai, đúng theo phương thức “ăn ngọn cho gốc”.
Mùa kế, Quỷ chuyển qua phương thức “ăn gốc cho ngọn”. Phật bảo Người lại chuyển sang trồng lúa. Kết quả, Quỷ hưởng toàn rạ, lại hỏng ăn.
Quỷ tức lộn ruột nên mùa sau tuyên bố “ăn cả gốc lẫn ngọn”. Phật trao cho Người giống cây ngô (bắp) để gieo khắp nơi. Quỷ lại không được gì, còn Người thì thu hoạch cơ man là bắp ngô. Cuối cùng Quỷ nhất định bắt Người phải trả lại tất cả ruộng đất không cho làm rẽ nữa.
Phật bàn với Người điều đình với Quỷ, xin miếng đất bằng bóng chiếc áo cà sa treo trên ngọn cây tre. Quỷ thấy không thiệt hại gì nên đồng ý. Khi đó Phật dùng phép thuật để bóng chiếc áo cà sa đó che phủ toàn bộ đất đai khiến Quỷ mất đất phải chạy ra biển Đông.
Mất đất sống, Quỷ huy động quân vào cướp lại. Phật bày Người tấn công bằng máu chó, lá dứa, tỏi, vôi bột… Quỷ thua và bị đày ra biển Đông. Trước khi đi, Quỷ xin Phật thương tình cho phép một năm được vài ba ngày vào đất liền viếng thăm phần mộ của tổ tiên cha ông. Phật thương hại nên hứa cho.
Do đó, hàng năm, cứ vào dịp Tết Nguyên Đán là những ngày Quỷ vào thăm đất liền, người ta theo tục cũ trồng cây nêu để Quỷ không bén mảng đến chỗ Người cư ngụ. Trên nêu có treo khánh đất, có tiếng động phát ra khi gió rung để nhắc nhở bọn Quỷ nghe mà tránh. Trên ngọn cây nêu còn buộc một bó lá dứa hoặc cành đa mỏ hái để cho Quỷ sợ. Ngoài ra, người ta còn vẽ hình cung tên hướng mũi nhọn về phía Đông và rắc vôi bột xuống đất trước cửa ra vào trong những ngày Tết để cấm cửa Quỷ.
Cây nêu trong lịch sử văn học Việt Nam
Cây nêu có nguồn gốc bắt nguồn từ “sự tích cây nêu ngày Tết”. Vậy muốn biết cây nêu là gì, hãy cùng đến với bản lược giản của câu chuyện này, theo Nguyễn Đổng Chi trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam.
Từ sự tích trên, có thể thấy “phiên bản gốc” của cây nêu là cây tre. Sự tích này cũng không vượt ra ngoài các đạo thuyết của Phật giáo và Lão giáo, cho rằng ngày Tết phải cắm nêu trước nhà để xua đuổi ma quỷ. Cây nêu trở thành một biểu tượng bảo vệ sự bình yên của con người trong những ngày thánh thần về trời, còn con người vui chơi giải trí.
Cây nêu trong truyện cổ tích chính là cây tre.
Tuy nhiên qua thời gian, cây nêu trở thành một vật mang tính biểu tượng nhiều hơn là một loại cây thực sự. Ngày nay, cây nêu trở thành một thân cây nói chung, và khác biệt đối với từng vùng miền, dân tộc.
Đối với các lễ hội lớn của người Kinh, cây nêu có thể là cây bương, lồ ô, hoặc tre cao tỉa sạch cành lá. Trong khi các dân tộc thiểu số chỉ dùng một số loại cây gỗ thân chắc chắn, như cây gạo của người Gia Rai.
Cây nêu của người dân Tây Nguyên.
Những vật dụng treo trên cây nêu cũng khác biệt tuỳ khu vực. Theo sự tích của người Kinh, trên cây nêu có treo khánh đất (chuông khánh), bó lá dứa hoặc cành đa mỏ hái để xua đuổi ma quỷ.
Nhưng với các dân tộc khác, họ có thể treo nhiều vật dụng khác, như cá chép cho táo quân, bùa trừ tà, hoặc đơn giản là những hình vẽ theo tục lệ riêng biệt.