Xuất tinh ngược chiều. Trong quá trình giao hợp, việc cố kéo dài thời gian yêu, nín nhịn không xuất tinh, tinh dịch buộc phải đi theo đường khác. Cụ thể, chúng sẽ đi lên trên và chui vào bàng quang, hình thành xuất tinh ngược chiều, lâu dần hình thành phản xạ có điều kiện, dẫn đến vô sinh.
Khó xuất tinh. Xuất tinh là mốc đánh dấu đã đạt đến cao trào, là một quá trình sinh lý phức tạp. Khi được kích đầy đủ, “trung khu phóng tinh” hưng phấn sẽ xuất hiện động tác xuất tinh. Trung khu thần kinh sẽ chi phối và khống chế toàn bộ quá trình này. Việc thường xuyên kéo dài thời gian yêu, nín nhịn không xuất tinh dẫn đến các phản ứng sinh lí, chức năng vỏ đại não rối loạn, chức năng phóng tinh bị ức chế, lâu dần sẽ mắc bệnh không xuất tinh.
Dẫn đến viêm tinh hoàn. Tinh hoàn là cơ quan sản xuất tinh trùng và hợp thành tinh dịch. Khi giao hợp bình thường, tinh hoàn, tiền liệt tuyến và các cơ quan khác trong trạng thái sung huyết. Nếu “ngưng chiến”, không xuất tinh, tốc độ phục hồi máu ở cơ quan sinh dục chậm rõ rệt, tinh hoàn trong trạng thái sung huyết kéo dài, các mao mạch ở vách bên trong tinh hoàn bị rách, dẫn đến viêm tinh hoàn.
Dẫn đến liệt dương. Khi đang quan hệ tình dục, nếu bỗng “ngưng chiến”, hoạt động thần kinh trung khu tình dục trong vỏ đại não và cơ quan sinh dục vẫn trong trạng thái hưng phấn, khát vọng tình dục vẫn chưa được đáp ứng. Điều này sẽ tăng gánh nặng cho hệ thống thần kinh và cơ quan sinh dục, dẫn đến liệt dương.
Dẫn đến thần kinh suy nhược. Có người cho rằng, tinh dịch là vật chất tinh hoa của cơ thể, nên kìm nén không xuất tinh. Điều này khiến đại não trong trạng thái căng thẳng, lo âu, thần kinh luôn bị ức chế, tạo sức ép về tâm lí, lâu dần thành suy nhược, mất ngủ, hay quên, đau đầu, chóng mặt và hoa mắt.
Thường xuyên di tinh. Thường xuyên khống chế không cho tinh binh ra ngoài, tinh dịch không biết đi đâu về đâu, tất yếu sẽ dẫn đến di tinh.
Bệnh trĩ. Việc thường xuyên khống chế xuất binh sẽ ảnh hưởng đến tuần hoàn máu ở phần hậu môn, từ đó hình thành nên bệnh trĩ.