Ở Mỹ và Anh (theo Sampson HA-1999) dị ứng thức ăn (qua trung gian IgE) gây bệnh cho trẻ em khoảng 8%, cho người lớn khoảng 3% (chưa có số liệu tổng quát ở nước ta). Nguyên nhân do các dị nguyên glycoprotein. Các glycoprotein này tan được trong nước, có khả năng bền vững với nhiệt (khi chế biến) với acid, không bị phân hủy bởi protease.
-
1
Một vài điểm tổng quát về dị ứng thức ăn
Thức ăn hay gây dị ứng là sữa bò, trứng, lạc, vừng, đậu nành, lúa mỳ, hạt quả cứng, kiwi, táo, cà rốt, cá, nghêu, sò, tôm, cua… Mỗi độ tuổi hay bị dị ứng với một loại thức ăn nhất định, có thể kéo dài nhưng cũng có thể khỏi ở một độ tuổi nào đó: Dị ứng có thể xảy ra với trẻ từ 1-7 tuổi với hạt cứng, 6-36 tháng tuổi với hạt mè, tuổi trưởng thành với nghêu sò, tôm, cua, cá và dai dẳng. Trong khi đó, trẻ em 6 – 24 tháng tuổi thường bị dị ứng lòng trắng trứng gà, sữa bò, lúa mỳ, đậu nành; đa phần sẽ khỏi lần lượt theo các thực phẩm này ở độ tuổi 7 – 5 – 2 – 5. Dị ứng thức ăn còn lưu hành theo từng địa phương. Nếu dị ứng trứng gà, sữa bò gặp hầu hết trên thế giới, thì dị ứng mù tạt hay gặp ở Pháp, hạt vừng lại thường gặp ở Israel, dị ứng cá hay gặp ở các nước ăn nhiều cá ngừ trong đó có nước ta.
Cấp cứu bệnh nhân tại Trung tâm chống độc Bệnh viện Bạch Mai.
-
2
Thuốc dùng trong dị ứng thức ăn
Dùng thuốc nhằm hủy các triệu chứng dị ứng, quan trọng nhất là chống các phản ứng phản vệ.
Thường dùng 4 loại thuốc: epiephrin, kháng histamin, chống co thắt phế quản, corticoid hít hay toàn thân.
-
3
Epinephrin:
Có vai trò nâng cao huyết áp, chống suy tim trụy mạch cấp.
Phải dùng sớm: tiêm bắp nhanh trong vòng ít phút sau khi phản ứng dị ứng xảy ra. Dùng muộn dễ dẫn đến gia tăng dạng phản ứng phản vệ 2 pha, gia tăng tỷ lệ tử vong (theo Lee JM-2000).
Nếu phản ứng phản vệ nặng, cần phải dùng tại bệnh viện và theo dõi chặt chẽ.
Với những người bệnh dị ứng thức ăn đến bệnh viện với triệu chứng suy hô hấp, hạ huyết áp, bất tỉnh, cần dùng ngay, càng sớm càng tốt trong vòng 8 giờ, vì đây cũng là thời gian thường xảy ra pha 2 (pha muộn) của phản ứng phản vệ đồng thời phải theo dõi liên tục trong 24 giờ (theo Ellis AK, 2007).
Để tiện lợi và kịp thời, có dạng ống epinephrin tự tiêm, tuyến dưới hay người bệnh có thể dùng được liều epinephrin dùng trong các trường hợp này phải thấp hơn liều tối đa.
Để phòng pha 2 (pha muộn) phản ứng phản vệ còn có thể dùng prednisolon uống với liều mỗi ngày 1-2mg/kg cân nặng, dùng trong 3 ngày liên tục.
-
4
Kháng histamin:
Dùng các kháng histamin có tác dụng nhanh để loại bỏ nhanh các triệu chứng dị ứng.
Có thể dùng kháng histamin thế hệ cũ (chlopheniramin, alimerazin, cycloheptadin, meclizin, cyclizin). Với trẻ em không được dùng prometazin (cấm dùng cho trẻ em 2 tuổi, trẻ trên 2 tuổi chỉ dùng liều thấp nhất có hiệu quả). Thuốc làm trẻ suy hô hấp khi ngủ dẫn đến tử vong đột ngột, đặc biệt không dùng cho trẻ đang bị mất dịch vì gây hội chứng Reye. Lưu ý thuốc kháng histamin thế hệ cũ gây ngủ gà, làm gia tăng tác dụng của các thuốc trầm cảm, làm suy hệ thần kinh trung ương, khi tiêm với liều cao có thể gây tụt huyết áp.
Có thể dùng các kháng histamin thế hệ mới (cetirizin, acrivastin, loratidin). Không được dùng các kháng histamin thế hệ mới terfenadin và astemizol vì hai thuốc này gây hiện tượng xoắn đỉnh đã bị nhiều nước cấm. Các thuốc cetirizin, acrivastin, loratidin tuy chưa tìm thấy bằng chứng gây xoắn đỉnh nhưng cũng nên dùng cẩn thận. Không dùng cho trẻ em dưới 2 tuổi, riêng loratidin, ceritidin không dùng cho trẻ em dưới 6 tuổi, thận trọng khi dùng cho người có chức năng gan thận suy giảm.
-
5
Thuốc chống co thắt phế quản:
Đa phần người dị ứng thức ăn, đặc biệt ở người có bệnh hen thường bị hen, phù thanh quản: Thông thường phải dùng thuốc kích thích thụ thể beta-2 (chủ vận beta-2) dạng hít (như salbutamol, salmeterol), có kết hợp với corticoid hít (như beclomethazon, fluticazon) hoặc có thể dùng loại ống hít phối hợp hai chất này (seretide). Nếu người bệnh có biểu hiện khó thở nặng cần cho thở oxygen.
-
6
Coticoid hít hay toàn thân:
Corticoid được dùng để giảm cơn co thắt (dạng hít, như nói trên) dùng phòng phản ứng phản vệ muộn (dạng uống). Corticoid (đặc biệt là corticoid uống) có nơi đưa vào thường quy xử trí dị ứng thức ăn nhưng có nơi không coi là điều bắt buộc.
Về phòng dị ứng: Nguyên tắc chung là tìm các loại thức ăn gây dị ứng (theo nguyên tắc loại trừ dần) sau đó không dùng loại thức ăn được cho là nguyên nhân gây ra dị ứng. Riêng trứng khi dùng để chế vaccin sẽ sinh ra các dị nguyên và trẻ dị ứng với trứng thì rất có thể dị ứng với loại vaccin này, cần phải hết sức thận trọng.
Thuốc dùng trong dị ứng thức ăn không khó kiếm nhưng thường không được dùng kịp thời do ít khi chuẩn bị sẵn sàng.
-
7
Biểu hiện dị ứng thức ăn thường thấy
Nhẹ và vừa: ở da: mày đay, đỏ bừng, phù mạch; ở hệ tiêu hóa: nôn mửa, quặn bụng đau bụng, tiêu chảy; ở hô hấp: viêm mũi, hen phế quản (khởi phát đột ngột tình trạng khò khè và nặng lên sau một thời gian ngắn), phù thanh quản. Cũng có thể chán ghét thức ăn, thay đổi hành vi, khí sắc.
Nặng: Phản ứng sốc phản vệ. Đa số là phản ứng phản vệ 1 pha, xảy ra ngay sau khi ăn do các do nguyên nhân hấp thu nhanh. Song có 6% trường hợp là phản ứng phản vệ 2 pha, pha sau xảy ra muộn (4-12 giờ) sau khi ăn, do các dị nguyên hấp thu chậm (khoảng 90% trường hợp). Trong số phản ứng phản vệ 2 pha thì có 50% trường hợp rất nặng, liên quan đến tử vong.