Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu chính thức có hiệu lực và được phê chuẩn bởi hai nước xả thải khí carbon lớn nhất thế giới, mục tiêu đặt ra là thế giới sẽ không ấm hơn hiện tại 2 độ C cho tới năm 2100. Tuy nhiên, mục tiêu này rất khó thực hiện khi chỉ trong năm nay chúng ta đã ghi nhận rất nhiều ngưỡng kỷ lục nhiệt độ mới, đến nỗi dường như viễn cảnh tồi tệ nhất có thể còn khủng khiếp hơn trong tương lai không xa.
(Ảnh minh hoạ: internet)
Năm nay, mật độ khí CO2 trong bầu khí quyển vẫn luôn ở trên mức 400 phần triệu (ppm), thậm chí có thể vượt ngưỡng 410 ppm.
Con số này là 280 ppm vào giai đoạn tiền công nghiệp, nghĩa là so với thời điểm từ cuối thế kỷ 18 đã ghi nhận sự gia tăng kỷ lục 43% nồng độ khí CO2 trong bầu khí quyển. Điều này khiến tỷ lệ ấm lên toàn cầu gia tăng gấp 10 lần thông thường.
Hãy thử tưởng tượng viễn cảnh sau. Đại dương là nơi lưu trữ lượng khí CO2 lớn nhất trên hành tinh. Có thể trong bầu khí quyển lượng khí CO2 vẫn là nhiều hơn, nhưng các đại dương đã hấp thụ một lượng CO2 quá nhiều đến nỗi nếu chúng xả thải tất cả trở lại bầu khí quyển trong một đêm, thế giới sẽ ấm lên với tỷ lệ nhanh gấp 360 lần thông thường.
Biểu đồ biểu thị nống độ khí CO2 (đợn vị một phần triệu hay ppm) trong bầu khí quyển vào tháng 9 vừa qua, đo tại Mauna loa, Hawaii. Màu đỏ là chỉ số trung bình theo giờ, màu vàng là chỉ số trung bình theo ngày. Để ý phần lớn thời gian, chỉ số luôn trên mức 400 ppm. (Ảnh: NOAA)
Kể từ thời điểm này trở đi, nồng độ khí CO2 trong khí quyển sẽ tiếp tục chiều hướng leo thang với tỷ lệ nhanh hơn nữa. Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu sẽ cần thời gian để triển khai và có hiệu quả, nhưng lượng khí thải sẽ tiếp tục leo thang trong vài thập kỷ tới, theo tính toán của hầu hết các chuyên gia. Một số cho rằng lượng khí CO2 trong bầu khí quyển sẽ trở nên quá nhiều, đến nỗi giới hạn mức tăng nhiệt độ 2 độ C sẽ chỉ khả thi cho tới năm 2030 thay vì tới năm 2100.
Trên thực tế, với đà này chúng ta sẽ cán ngưỡng nồng độ khí CO2 gấp đôi thời tiền công nghiệp, tại mức 560 ppm vào thời điểm năm 2100. Một nghiên cứu chỉ ra rằng điều này sẽ khiến Trái Đất ấm lên một mức nhiệt choáng ngợp: 9 độ C. Và hậu quả tất yếu là thêm nhiều thảm họa tự nhiên, thâm hụt lương thực, các thành phố bị nhấn chìm [khi mực nước biển gia tăng do băng tan vùng cực], và sự sụp đổ của nền kinh tế thế giới – một cái nhìn lướt về viễn cảnh tồi tệ trong tương lai.
Tất nhiên, đây là một vấn đề có thể ngăn chặn, giảm thiểu. Chìa khóa nằm ở chỗ chuyển dịch sang năng lượng tái tạo (hay năng lượng xanh), ví như năng lượng mặt trời, gió, mưa, thủy triều, sóng và địa nhiệt – những nguồn năng lượng trong quá trình sản xuất không xả thải khí CO2.
Viễn cảnh này không quá xa vời. Lấy ví dụ, các nhà khoa học ước tính toàn bộ nước Mỹ, với nhu cầu tiêu thụ điện lên đến 4,082 megawatt giờ / năm, có thể được vận hành chỉ nhờ một cánh đồng năng lượng gió có diện tích xấp xỉ vùng thủ đô Hà Nội (hơn 3000 km vuông).
Một cánh đồng năng lượng gió ở Wyoming, Mỹ. (Ảnh: Internet)
Hay Indonesia, với vài trăm ngọn núi lửa, ước tính sở hữu 40% nguồn địa nhiệt Trái Đất, có thể tận dụng lợi thế này để khai thác điện năng.
Núi lửa Rinjani trên đảo Lombok, Indonesia, một trong vài trăm núi lửa trên quốc đảo này. (Ảnh: Reuters)
Một nhà máy địa nhiệt ở Indonesia. (Ảnh: AFP)
Vậy những nước còn lại? Có thể sử dụng kết hợp năng lượng hạt nhân (yêu cầu về trình độ kỹ thuật, không cần tài nguyên đặc thù sẵn có) cùng các nguồn năng lượng xanh khác.
Vì nhiều lý do, 2016 là một năm rất đáng lo ngại. Hiện viễn cảnh khá chắc chắn, rằng năm nay sẽ là một năm nóng kỷ lục, một năm ngột ngạt trong bầu khí thải CO2.
Theo Đại Kỷ Nguyên