Ở TP Điện Biên Phủ (tỉnh Điện Biên), những người lớn tuổi đều biết đến một câu chuyện kinh dị, đó là chuyện nữ y tá “báo oán” khiến nhiều quan chức vào tù, còn những kẻ đào trộm mộ cô không chết chóc vì bệnh tật thì cũng tan hoang cửa nhà.
Chuyện ấy đến nay vẫn đồn đại ầm ĩ và mỗi người kể một kiểu. Người thì bảo, đại gia Trần Hùng Sơn đã dùng xương bàn tay của cô để làm bùa, luyện phép, biển thủ công quỹ dễ dàng, người lại bảo gã bán sang Lào cho các pháp sư với giá cao, để có tiền chạy lên chức giám đốc…
Câu chuyện ấy hư hư, thực thực, không rõ thế nào, nhưng có một sự thực là Trần Hùng Sơn, kẻ đứng sau vụ trộm xương cô gái xấu số, đã phải trả giá và những người tham gia quật mộ cũng khốn đốn không kém, khi hầu hết đều chết thảm.
Nghĩa địa Noong Bua, nơi xảy ra vụ đào mộ trộm xương gần 30 năm trước. |
PV đã tìm về TP Điện Biên, để tìm hiểu thực hư câu chuyện bí ẩn này.
Bị trời đánh, người chết thiệt mạng, người sống khốn khổ
Dân gian nhiều nơi vẫn đồn thổi những chuyện ly kỳ quanh những bộ xương bị sét đánh. Người ta đồn rằng, bọn trộm chuyên nghiệp rất ao ước có được bàn tay của người bị sét đánh.
Chúng tin rằng, khi đi ăn trộm mà mang theo bàn tay của người bị sét đánh, thì chúng sẽ trở nên vô hình, không ai nhìn thấy được và cứ thế vô tư ra vào nhà đối tượng như chỗ không người.
Chẳng biết việc cầm xương bàn tay người bị sét đánh có giúp tên trộm có khả năng đó không, nhưng lời đồn này ở vùng đất nào cũng có. Những người không tin vào dị đoan thì giải thích rằng, có thể bàn tay của người bị sét đánh có một năng lượng nào đó khiến chủ nhà ngủ say, nhờ thế bọn trộm cứ thế mà tung hoành, vơ vét của cải.
Những người nghiên cứu về mật tông thì giải thích rằng, các pháp sư người Lào, Thái Lan sử dụng xương người bị sét đánh để luyện bùa. Người ta tin rằng, những người bị sét đánh, nếu chết, thì đều là chết bất đắc kỳ tử, chết oan ức, nên linh hồn của họ không siêu thoát được, mà cứ luẩn quẩn ở nhân gian. Các pháp sư cao tay dùng thuật để sai khiến, bắt oan hồn làm nô lệ, tay sai cho họ.
Người ta đồn rằng, năng lượng từ bộ xương bị sét đánh có thể làm được những việc nhỏ như chữa bệnh, truyền năng lượng cho người yếu, đến “bắt ma” cho các bệnh nhân tâm thần, thậm chí là làm cho người khác phát điên, hoặc chết bất đắc kỳ tử.
Thế nên, pháp sư nào sở hữu một bộ xương bị sét đánh, thì chẳng khác gì sở hữu một kho báu, hay một lưỡi tầm sét, không chỉ nâng cao vị thế, uy tín trong giới pháp sư, mà còn có thể kiếm tiền như nước.
Ông Đoàn Văn Diệp – người tham gia vụ đào mộ trộm xương. |
Vì lẽ đó, giới pháp sư thường bỏ ra rất nhiều tiền để kiếm những bộ xương bị sét đánh. Họ tin rằng càng sở hữu được nhiều bộ xương, sai khiến được nhiều oan hồn, thì năng lực của họ càng mạnh.
Ở Điện Biên, trong những ngày tìm hiểu về vụ đào mồ cuốc mả kinh dị này, tôi còn được nghe mấy tay bợm nhậu kháo nhau chuyện dùng xương người bị sét đánh để… nấu cao.
Vùng Sơn La, Điện Biên vốn nhiều hổ, lại giáp nước Lào, là thủ phủ của hổ, nên “chúa sơn lâm” vẫn được tuồn từ Lào về hai tỉnh này để chui vào nồi cao và có lẽ vì thế mà chuyện đồn đại quanh nồi cao cũng lắm ly kỳ.
Giới mê cao hổ đồn rằng, bộ xương hổ mà thiếu xương bánh chè, thì nồi cao coi như bỏ đi. Dù chẳng có căn cứ khoa học nào, nhưng người ta cứ đồn vậy, và khi bộ xương hổ bày ra, người ta quan tâm đầu tiên đến mẩu xương bánh chè nhỏ xíu.
Không chỉ có thế, ở Điện Biên và Sơn La, giới sành cao hổ còn rỉ tai nhau rằng, nếu kiếm được một mẩu xương người bị sét đánh, thả vào nồi cao hổ, thì nồi cao hổ ấy giá trị không khác gì vàng. Người ta đồn rằng những người đau nhức xương cốt nếu được ăn loại cao hổ này sẽ khỏi bệnh nhanh chóng. Tuy nhiên, tất cả chỉ là lời đồn thổi vô căn cứ của những kẻ nấu cao, nhằm thêm phần huyễn hoặc cho những nồi cao hổ của chúng.
Cũng chính vì những lời đồn thổi vô căn cứ về tà thuật của xương người bị sét đánh, mà ở khắp vùng Đông Dương và Thái Lan, hễ có người bị sét đánh, là người thân đào sâu chôn chặt, rồi đổ bê tông phủ kín quan tài, để bọn trộm không đào phá được mộ.
Nhiều gia đình còn cẩn thận kéo điện ra mộ trông ngày, trông đêm. Thậm chí, có gia đình chôn luôn người thân trong vườn nhà để tiện bề trông nom trước sự thèm thuồng của bọn trộm. Thế nhưng, ở Điện Biên, cô y tá chết thảm do sét đánh, không có người thân bên cạnh, lại chôn ở nghĩa địa hoang vắng, thì chẳng khác gì làm mồi cho bọn trộm.
Người đàn bà cả tin vào những chuyện hoang đường
Dò hỏi loanh quanh mãi, rồi tôi cũng tìm thấy nghĩa địa Noong Bua, nằm ở rìa TP Điện Biên Phủ. Nghĩa địa nằm sau khu dân cư, trên một quả đồi rậm rịt cây cỏ. Những ngôi mộ lúp xúp, xanh đỏ lẫn trong đám cỏ dại, cây cối.
Nhiều ngôi mộ xây to, nhưng không có sự chăm sóc của con người, nên dây leo quây kín. Một cảm giác lành lạnh, rờn rợn khi bước chân vào nghĩa địa này, dù nó chỉ nằm ngay sau khu dân cư. Dường như nơi đây, người sống ít chăm bẵm cho người chết, nên mồ mả đều hoang lạnh. Gió thổi vào những bụi bương, khiến thân bương chạm vào nhau phát ra tiếng kêu “cót két” thêm rợn người.
Đang lang thang ở rìa nghĩa địa, thì một người đàn ông trung tuổi đi tới. Tôi kéo lại hỏi về vụ đào trộm mộ cô gái bị sét đánh, thì ông dắt tôi đến một doi đất như cái hủm bên một bụi bương khổng lồ và bảo rằng, đó chính là nơi chôn cất cô Vũ Thị Lê, cô gái xấu số bị sét đánh chết, rồi bị một nhóm người liều mạng đào mồ trộm xương.
Người dân quanh vùng đều biết đến chuyện đó, vì nó quá nổi tiếng, quá ầm ĩ suốt một thời gian dài. Kể lể một hồi, rồi ông chỉ tôi đến nhà ông Đoàn Văn Diệp, ở phường Noong Bua, cách nghĩa địa chừng 500 mét. Ông dặn đi dặn lại tôi rằng, không được tiết lộ ông là người chỉ đường đến nhà ông Diệp.
Sợ bọn trộm, người ta phải chôn sâu, đổ bê tông cho những ngôi mộ chôn người bị sét đánh. |
Hỏi han lòng vòng mãi, tôi cũng tìm được nhà ông Đoàn Văn Diệp trên một quả đồi nhỏ đông dân cư, nhưng cây cối rậm rạp, tối tăm. Đại gia đình ông Diệp sống tụ tập trong mấy ngôi nhà tềnh toàng, lúp xúp bằng gỗ, đã lên màu đen bóng. Chiếc cổng sắt thấp tè, hoen gỉ như thể cho có, nửa đóng nửa mở.
Thấy tôi, người phụ nữ béo lùn, khuôn mặt không thiện cảm lắm, cứ chằm chằm nhìn tôi, rồi tiến lại hỏi tìm ai. Khi tôi giới thiệu là nhà báo, thì bà tỏ ra khó chịu, tìm mọi cách xua đuổi.
Bà vừa xua đuổi, nhưng lại liên tục kể lể, kêu than: “Tôi sợ lắm rồi! Vì chuyện của ông ấy mà gia đình tôi khốn khổ, tôi cũng khốn khổ. Tôi chỉ muốn mọi thứ được ngủ yên thôi, mà nào có được yên đâu. Cứ thi thoảng cô ấy (cô Lê – người bị ông Diệp quật mộ) lại hiện về dọa nạt, khiến tôi hết hồn”.
Nghe vợ ông Diệp nói vài câu cũng đủ biết người đàn bà này mê tín, tin vào những chuyện tâm linh huyễn hoặc kia. Bà kể liên tục những chuyện không đầu không cuối về những chuyện mà bà tin rằng ma quỷ đã ám gia đình bà suốt 30 năm qua.
Theo lời bà, hồi chồng bà đào mộ cô Lê, bà hoàn toàn không biết, thế nhưng những sự lạ liên tiếp xảy đến với bà. Lần đầu tiên, sau hôm ông Diệp tham gia quật mộ vài ngày, khi bà đang nằm trên võng ngủ ở gốc cây hồng xiêm, vừa thiêm thiếp thì bà mơ thấy người phụ nữ trẻ người cháy đen, chân và tay gác vào cành cây, người như cái võng đưa đẩy thõng thẹo trước mặt bà.
Bà cố kêu lên, nhưng không sao kêu được, cố cựa mình không không sao cựa nổi. Phải một lúc sau, bà mới hét lên được, rồi lăn xuống đất. Hoảng sợ quá, bà gọi ông Diệp ra kể, thì ông Diệp mới hết hồn, liên tưởng đến chuyện đào mồ cuốc mả, lấy trộm bộ xương của cô gái mấy hôm trước.
Bị bà vợ truy vấn, ông Diệp mới kể lại chuyện ấy. Hãi hùng quá, bà cùng chồng làm lễ cúng linh đình, thậm chí ra tận khu đất có mộ cô gái xấu số để cúng bái, làm lễ siêu thoát cho cô gái.
Thế nhưng, theo lời bà vợ ông Diệp, thì “oan hồn” của cô gái xấu số đó cứ ám lấy cuộc sống của bà cho mãi đến bây giờ. Chuyện kinh dị nhất là vụ mấy năm trước, sau khi mơ thấy người phụ nữ lạ mặt đến nhà, thì hôm sau bà phát hiện có con rắn to tướng ở trong nhà mình.
Bất kỳ con vật nào lạc vào nhà bà, từ con bướm, con chim, đến con rắn, bà đều nghĩ đó là “oan hồn cô Lê” tìm đến, nên bà đều không dám giết hại. Nhưng chim chóc trong nhà còn được, chứ con rắn to bằng cổ tay ở trong nhà thì nguy hiểm quá, nhỡ nó đớp cho cái thì toi mạng.
Nghĩ thế, bà thắp hương, lầm rầm khấn vái, xin “cô Lê” tha mạng. Khấn xong, bà lấy cây gậy đuổi rắn. Thế nhưng, con rắn cứ ngỏng đầu nhìn bà chằm chặp, không chịu đi. Bà đặt cây gậy cạnh nó, tức thì con rắn bò lên cây gậy, rồi quấn chặt. Bà đem cây gậy ấy ra nghĩa địa Noong Bua, cách nhà đến 500 mét rồi thả cả gậy lẫn rắn ở đó.
Lại có lần, sự xuất hiện của một con rùa cũng khiến cả nhà bà một phen náo loạn. Hôm ấy, vùng Tây Bắc mưa to gió lớn, nhiều nơi ngập lụt. Bà vợ ông Diệp dậy sớm nấu nướng, thì thấy có con rùa to bằng miệng bát con nằm ở thềm nhà, ngay giữa cửa ra vào.
Nếu con rùa ấy lạc vào nhà khác thì có khi đã biến thành món rùa rang muối, nhưng vào nhà bà, thì bà nhất nhất tin đó là “cô Lê”. Bà cúng khấn, nói chuyện với “cô Lê” một hồi, rồi đem “cô” thả ở một cái đìa cách nhà mấy trăm mét. Lại điều lạ lùng xảy ra là bà thả buổi sáng, thì buổi chiều lại thấy đúng con rùa đó nằm trước hiên nhà bà.
Tin đó là “cô Lê” hóa thành, nên bà không xua đuổi con rùa nữa, mà mặc kệ nó ở trong nhà. Đến bữa, bà lấy rau cỏ, bắt dế, cá, tôm cho rùa ăn. Vài ngày sau, thì con rùa biến đâu mất.
Sau khi kể chán chê chuyện hoang đường huyễn hoặc mà bà nghĩ là liên quan đến việc chồng mình là ông Diệp quật mộ cô Lê, bà mới thở dài bảo: “Ông nhà tôi cũng chỉ là phận làm thuê, chuyên nghề bốc mộ, chứ có định trộm xương cốt ai đâu, mà phải gánh chịu điều tiếng ghê thế chứ? Người ta đồn ông nhà tôi được nhiều vàng bạc, đô la lắm, nên mới đi trộm mộ…”.
Nắm được chuyện người phụ nữ này than thở, tôi liền bảo: “Chính vì không ai hiểu rõ, nên người ta cứ đồn thổi này nọ. Bác cứ để ông Diệp chia sẻ rõ ràng, để mọi người hiểu chuyện, thì người ta cũng thôi đồn thổi, mà bác Diệp cũng được nhẹ lòng”. Nghe tôi nói vậy, người đàn bà này mới giãn khuôn mặt cau có và cho tôi số điện thoại để gọi ông Diệp.
Ôm nỗi muộn phiền
Tôi giới thiệu là nhà báo, không ngờ ông Đoàn Văn Diệp lại vồn vã, hứng khởi đến vậy. Chỉ loáng cái, ông đã có mặt ở nhà. Ngày nào cũng vậy, cứ sáng bảnh mắt, ông Diệp đã dậy, dắt ông chú, là chồng của dì ruột vợ ông, đi dạo khắp phường Noong Bua. Bữa trưa, ông tranh thủ dắt chú về ăn trưa, rồi lại dắt nhau đi đến tối.
Ông chú này đã 92 tuổi, rất khỏe, ăn tốt, ngủ tốt, nhưng lại bị bệnh teo não, không nhớ được gì, phóng uế bừa bãi. Bà vợ cũng bị tai biến nằm liệt. Con cái đều là cán bộ, bận mải công tác, mà ông Diệp thì rỗi rãi, nên nhận chăm sóc chú.
Ông Diệp bảo: “Đời tôi đã phạm sai lầm lớn, là tham gia quật mồ trộm mả của cô gái trẻ đáng thương. Phần cuối đời, tôi phải làm nhiều việc tốt, bất kể cho ai, để mong thanh thản anh ạ. Vợ tôi thì sợ nhà báo, nhà văn, chứ tôi thì không ngại gì mà sẵn sàng chia sẻ.
Tôi cũng chỉ là nạn nhân trong vụ đó thôi, chứ nếu tôi là chủ trò, thì giờ làm gì mà còn sống ngồi đây kể chuyện cho anh nữa. Tất cả những người tham gia đào mộ đều bị quả báo, đã chết hết rồi. Ai không chết thì gia cảnh cũng thảm lắm. Tôi bị nhẹ nhất, là cháy hết nhà cửa, nhưng mạng sống vẫn còn, và ơn giời, là con cái không bị ảnh hưởng gì, giờ đều là cán bộ hết rồi. Tôi sẽ kể với anh toàn bộ chuyện này, không giấu điều gì sất”.
Câu chuyện nhóm trộm mộ cô gái xấu số bị sét đánh, trong đêm tối giữa nghĩa địa hoang vắng không một bóng người, được ông Đoàn Văn Diệp kể lại, dù đã trôi qua gần 30 năm, nhưng vẫn khiến người nghe rùng mình sợ hãi.
Năm 1987, Trần Hùng Sơn, một ông chủ quán phở ở Điện Biên, đã thuê một nhóm người đào trộm mộ cô Vũ Thị Lê, cô gái xấu số bị sét đánh chết.
Không ai rõ Trần Hùng Sơn dùng bộ xương ấy làm gì, nhưng bỗng nhiên gã phất lên nhanh chóng. Quán phở của gã đông khách nườm nượp.
Có tiền, gã lập công ty, rồi đút lót thế nào mà quen được toàn sếp lớn, nhận thi công nhiều dự án lớn ở tỉnh Lai Châu cũ. Tuy nhiên, sau đó gã bị bắt vì tội tham ô, đút lót, biển thủ công quỹ và nhận án tù chung thân.