Nguyên nhân khiến khủng hoảng hạt nhân Nhật Bản thêm trầm trọng?

Gần một tháng sau thảm họa động đất gây sóng thần kinh hoàng hôm 11/3 tại Nhật Bản, tình hình khắc phục sự cố hạt nhân tại Nhà máy điện hạt nhân Fukushima số 1 vẫn chưa được cải thiện.

Nhật báo Yomyuri nhận định nguyên nhân khiến cuộc khủng hoảng hạt nhân Nhật Bản trở nên trầm trọng hơn chủ yếu là do nhân tố con người, khi công ty Điện lực Tokyo (TEPCO) đã mắc 4 sai lầm trong việc xử lý các sự cố liên tiếp tại nhà máy này.

Nhà máy điện Fukushima I đã bị mất điện vào trưa 11/3 sau khi sóng thần tấn công, khiến các lò phản ứng số 1,2 và 3 ngừng hoạt động. Nhiệt độ và áp suất bên trong các thùng chứa của các lò phản ứng số 1, 2 và 3 đã bắt đầu tăng mạnh, gây rắc rối cho việc bơm nước làm mát các lò phản ứng này.

Đêm 11/3, TEPCO dự định mở van để xả hơi nước có chứa các chất phóng xạ từ lò phản ứng số 1 nhằm làm giảm áp suất. Tuy nhiên, kế hoạch này chỉ được thực hiện vào lúc 10g17 sáng 12-3, bốn giờ sau khi Thủ tướng Nhật Bản Naotô Kan rời Văn phòng Thủ tướng để tới thị sát nhà máy điện hạt nhân này.

Nhật Bản đã tính đến phương án chôn vĩnh viễn nhà máy điện Fukushima số 1.

Giáo sư danh dự Kenzo Miya của Trường Đại học Tokyo, một chuyên gia về hạt nhân, cho rằng chuyến thị sát của Thủ tướng Kan đã làm chậm các kế hoạch ban đầu là mở van để giảm áp suất trong thùng áp suất của TEPCO.

Đồng quan điểm này, ông Haruki Madarame, Chủ tịch Ủy ban An toàn Hạt nhân (NSC) của Chính phủ nhấn mạnh rằng sự chậm trễ này đã gây ra bất lợi. Theo ông, “việc xả khí tốn thời gian. Kết quả là một vài giờ đã mất trước khi bắt đầu bơm nước biển vào để làm mát lò phản ứng“.

Trong khi đó, Tổng Giám đốc Điều hành TEPCO Masataka Shimizu và Chủ tịch TEPCO Tsunehisa Katsumata lại đang có các chuyến công tác vào ngày 11/3. Họ chỉ có thể trở về Tokyo vào ngày 12-3. Sự vắng mặt của hai quan chức quản lý hàng đầu của TEPCO có thể đã dẫn tới sự trì hoãn trong việc đối phó với cuộc khủng hoảng trong giai đoạn đầu.

Người ta cũng cho rằng việc bơm nước biển làm mát lõi lò phản ứng chỉ có hiệu quả hạn chế. Do nước biển có chứa nhiều tạp chất và việc sử dụng nước biển để làm mát sẽ gây hư hại các lò phản ứng. TEPCO phải cân nhắc khả năng dỡ bỏ các lò phản ứng này, và như vậy sẽ phải phá hủy các tài sản năng lượng có giá trị.

TEPCO đã miễn cưỡng sử dụng nước biển vì họ lo ngại rằng nó sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động đầu tư trong dài hạn tại nhà máy này.

Một nhân tố khác gây phức tạp quá trình xử lý khủng hoảng là phản ứng chậm trễ của TEPCO trong việc làm mát các bể chứa tạm thời các thanh nhiên liệu đã qua sử dụng. Mặc dù nhiệt lượng sinh ra bởi các thanh nhiên liệu trong bể chứa này ít hơn so với nhiên liệu hạt nhân trong lõi lò phản ứng nhưng vấn đề trọng tâm ở đây là: Nếu các thanh nhiên liệu bị trơ ra khi mực nước làm mát giảm, chúng sẽ bị hư hại do quá nóng.

Các bể chứa thanh nhiên liệu đã qua sử dụng thậm chí còn nguy hiểm hơn bởi vì, chúng có thể dễ dàng phát thải các chất phóng xạ do không được chứa trong một cấu trúc chặt chẽ như lò phản ứng.

Ngoài ra, TEPCO cũng bị chỉ trích vì chậm công bố thông tin và liên tục đưa ra các thông báo không nhất quán về các vấn đề tại Nhà máy Điện hạt nhân Fukushima số I. Thất bại trong việc tiếp nhận và chuyển thông tin về những diễn biến quan trọng tại nhà máy này một phần là do hệ thống thông tin liên lạc nội bộ của TEPCO yếu kém, gây ảnh hưởng lớn đến việc trao đổi thông tin trong nội bộ công ty.

Từ khi xảy ra trận động đất gây sóng thần ngày 11/3 đến nay, khu vực Đông Bắc Nhật Bản liên tiếp phải hứng chịu khoảng 1.000 dư chấn, trong đó có nhiều dư chấn mạnh trên 7 độ richter.

Theo số liệu thống kê mới nhất, khoảng 28.000 người bị chết hoặc mất tích trong thảm họa này.

 

Theo Đất Việt